18.9.08

Xã luận số 40

Ngồi ghế văn minh,
vẫn thói man rợ!!!

Có thể nói từ cuối thế kỷ XIX trở đi, với bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền ngày 26-8-1789 của Cách mạng Pháp, nhân loại kể như đã bước lên một nấc tiến hóa mới, văn minh hơn, nhân bản hơn. Thế nhưng, với cái gọi là “Cách mạng Cộng sản” do Lénine rồi Staline chủ xướng từ năm 1917 tại Nga, biểu hiện qua những cuộc tàn sát man rợ mà nạn nhân -lên tới 20 triệu- chẳng những là người của chế độ cũ (đặc biệt cả gia đình sa hoàng Nicolas II) mà còn là lực lượng đối nghịch (phe Men-sê-vích), các nông dân không chịu vào hợp tác xã và các tôn giáo không chấp nhận vô thần (chủ yếu là Chính thống giáo); rồi qua việc xóa bỏ những di sản văn hóa trước đó (cụ thể là triệt hạ hàng trăm ngàn ngôi thánh đường, quét vôi trắng lên trên hàng ngàn bức bích họa vô giá của điện Kremlin…), với cuộc “cất mạng” ấy, nhân loại như trở về lại con đường bán khai man rợ. Đến độ Đức Piô XI, Giáo chủ Công giáo, trong Thông điệp “Đấng Cứu chuộc thần linh” (Divini Redemptoris ra ngày 19-03-1937), đã phải viết về chế độ cộng sản bôn-sê-vích vô thần như sau : “Nhiều dân tộc trọn vẹn đang có nguy cơ rơi vào lại sự man rợ còn khủng khiếp hơn này… Sự hủy diệt khủng khiếp này đã được thực hiện với một lòng căm thù, một sự man rợ, một tính tàn bạo mà người ta không tin là có thể trong thời đại chúng ta… Đó là những hoa trái của một hệ thống thiếu mọi hãm thắng bên trong. Một hãm thắng cần thiết cho con người xét cách cá nhân cũng như con người sống trong xã hội” (Số 2, 21 và 22).

Đến khi Stalin thực hiện cái gọi là «cuộc giải phóng các nước Đông Âu» sau thế chiến II, khoác lên các dân tộc này một chế độ độc tài đảng trị chưa từng thấy, thì tầm mức tàn ác còn gia tăng gấp bội, đến độ Đức Hồng y Joseph Beran (1888-1969), Tổng giám mục thủ đô Prague của Tiệp Khắc, đã phải có lần nói : «Những người cai quản chúng tôi là một lũ man rợ». Sự man rợ cộng sản đạt đến đỉnh điểm tại Trung Quốc nơi cuộc Cách mạng Văn hóa vốn khởi sự từ 1966, chính năm Liên Hiệp Quốc ban hành 2 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội (16-12-1966). Kéo dài đến 10 năm (1976), cuộc Cách mạng văn hóa này đã nâng tổng số nạn nhân bị chết bởi bàn tay Mao Trạch Đông lên 65 triệu người (theo Hắc thư chủ nghĩa CS), đó là chưa kể nó đã phá tan bao nhiêu kho tàng văn hóa của Trung quốc cổ mà cũng là của nhân loại, còn tạo thêm một lũ tiểu yêu Hồng vệ binh mất hết tất cả tính người.

Tại VN chúng ta, sự man rợ đã thấy ngay từ cuối thập niên 40, sau cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945, khi Hồ Chí Minh tiến hành cái gọi là cuộc «cải cách nông nghiệp long trời lở đất» (từ 1949 đến 1956 ), giết trực tiếp lẫn gián tiếp nửa triệu người Việt. Điển hình cho sự man rợ nầy là việc Hồ Chí Minh giết chết ân nhân của đảng, bà Cát Hanh Long (1952), còn Trường Chinh Đặng Xuân Khu thì đã đấu tố cả song thân của mình (cùng năm), khiến được khắc bia miệng ngàn đời: “Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác-Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng . Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hóa, tội kia sách chép đứa tên Khu ”. Rồi có lẽ bắt chước «Mao Chủ tịch vĩ đại, người thầy không bao giờ sai lầm», chỉ một năm sau cuộc Cách mạng Văn hóa, Hồ Chí Minh đã tiến hành cuộc tàn sát Mậu Thân (1968) mà toàn thể dân Việt và nhân loại sắp kỷ niệm 40 năm với trái tim còn rỉ máu. Còn rỉ máu vì hàng trăm ngàn nạn nhân của cuộc thảm sát này -mãi cho tới hôm nay- chưa bao giờ nghe được một lời tạ lỗi và thấy được một cử chỉ sám hối từ phía các tay đồ tể là đảng CSVN. Chúng ta nói là hàng trăm ngàn người, vì ngoài con số 14.300 nạn nhân vô tội gồm tu sĩ, công chức, nhà giáo, sinh viên, học sinh, dân thường ở miền Nam, còn phải kể đến 100.000 bộ đội miền Bắc (con số do chính CS đưa ra) đã bị nướng vào cuộc tàn sát dân tộc này, cuộc tàn sát man rợ nhất lịch sử đất nước mà người chủ xướng là Hồ Chí Minh và các lãnh đạo cao cấp trong đảng CS thời đó.

Trong cơn kiêu ngạo chiến thắng năm 1975, tự cho mình như tạo nên một khúc quặt cho văn minh thời đại, CS đặt ra cụm từ, tung ra khái niệm “Thế giới sau Việt Nam ”!?! Thế nhưng sự man rợ của CS vẫn tiếp tục hoành hành, khiến gần một phần ba trong số ba trăm ngàn “tù cải tạo chế độ cũ” chết bỏ thây trong rừng sâu, gần 2 triệu người phải bỏ nước ra ngoại quốc và từng ấy phải bỏ mạng trên biển cả khi trốn chạy chế độ, gần 3 triệu người miền Nam đang ở thành phố bị buộc phải bỏ nhà cửa -để nhường lại cho cán bộ- mà lên vùng kinh tế mới nước độc ma thiêng… chính giữa khi VN được gia nhập một tổ chức biểu tượng cho văn minh và nhân quyền là Liên Hiệp Quốc ngày 20-09-1977. Chưa đầy 2 năm sau, ngày 7-1-1979, tân thành viên này xâm lăng Campuchia, tự cho là thực hiện “nghĩa vụ quốc tế” (nghĩa vụ này có trong hiến chương LHQ không nhỉ?). Sự man rợ còn thể hiện trong cả một nền cai trị lấy lừa gạt và đàn áp làm phương sách, lấy việc tước bỏ mọi thứ nhân quyền cơ bản làm chủ trương, khiến cả 80 triệu đồng bào rên siết trong nhà tù lớn là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa VN, kể cả từ khi đảng và nhà nước tỏ ra hòa mình với thế giới văn minh bằng cách thò tay ký vào hai Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa nói trên ngày 24-09-1982.

Chỉ 3 năm sau động thái “văn minh hóa” này, tức lúc khởi sự cuộc đổi mới về kinh tế, CS bắt đầu cướp đất nông dân, cướp nhà thị dân, cướp lương lao dân và cướp nơi thờ tự của giáo dân để gọi là “phát triển”, “xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”!! Đất nước bắt đầu làm quen với tư bản chủ nghĩa, nhưng là thứ tư bản chủ nghĩa rừng rú, chỉ có mục đích đổ đầy túi giới tư bản trắng nước ngoài và giới tư bản đỏ nội địa. Nó đã làm bùng lên nhiều cuộc đấu tranh quyết liệt, như vụ nông dân đồng bằng sông Cửu Long kéo lên Sài Gòn năm 1988; dân chúng vùng Thanh Nghệ Tĩnh liên tục phản kháng những năm 90; nhân dân vùng Xuân Lộc (Đồng Nai) đứng dậy năm 1997; nông dân vùng Thọ Đà (Hà Tây), Kim Nỗ (Hà Nội) đánh nhau với công an để bảo vệ ruộng đất năm 1996 và 1998. Nhất là cuộc biểu tình của hàng ngàn nông dân Thái Bình diễn ra cuối năm 1996 rồi biến thành cuộc nổi dậy năm 1997, mà sau đó đã bị đàn áp một cách man rợ (CS nhờ

…thường phạm giết các thủ lãnh đấu tranh bị bỏ tù). Tiếp đến là cuộc nổi dậy của người Thượng Tây Nguyên năm 2001 rồi 2004 vì bị cướp hết đất đai, nguồn sống.

Giàu có lên, cán bộ đảng viên CS bắt đầu học làm sang: gởi quý tử đi du học nước ngoài, xây những biệt thự tư dinh sang trọng, sắm những vật dụng đắt tiền hay ăn xài hưởng thụ với những kiểu cách mà dân ngoại quốc cũng phải lè lưỡi. Thậm chí còn tỏ ra có tinh thần tôn giáo qua hành hương những miếu thánh đền thiêng, xì xụp cúng bái từ tư gia đến công sở... Nhưng giàu có lên đa phần đều do tham nhũng bóc lột, tiếp thu không phải tinh túy mà là cặn bã của xã hội văn minh (điển hình qua vụ Hoàng Thùy Linh và Vũ Hoàng Việt), lễ lạy cúng bái chỉ vì động cơ trục lợi: mong thăng quan tiến chức, thoát bàn tay luật pháp, khỏi dính sida lúc chơi bời… Sau khi đã bị phá hủy hay bỏ phế mấy chục năm trời, nhiều cơ sở văn hóa được tôn tạo; sau khi đã bị xem thường hay sắp sửa biến mất, nhiều loại hình văn hóa được khôi phục, nhưng với mục đích lợi nhuận là chính. Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa tự vỗ ngực là ưu việt nhưng chỉ thấy tính man rợ đầy tràn: thầy đánh trò, hiếp trò, khai thác trò, giao trò cho công an dân quân… trò coi thầy như kẻ bán chữ và coi trường học như chốn kinh doanh không hơn không kém…

Sau khi gia nhập Tổ chức Thương Mại Toàn Cầu ngày 07-11-2006, tức là đi vào thị trường buôn bán quốc tế với những luật lệ công bằng, sòng phẳng, minh bạch, CS vẫn tiếp tục cướp đất nông dân, cướp nhà thị dân và bóc lột công nhân lao động, vẫn tiếp tục cầm giữ tài sản đã “mượn” của các tôn giáo, vẫn tiếp tục đàn áp những cuộc khiếu kiện đòi trả đất và những cuộc đình công đòi tăng lương, để gọi là “tạo cho đầu tư ngoại quốc một môi trường thuận lợi”. Song song đó, CS đàn áp khốc liệt tất cả những ai bênh vực nhân dân, đòi quyền cho đồng bào và cho tôn giáo, cụ thể và nổi bật là giam giữ rồi xét xử bất công lm Nguyễn Văn Lý, ls Nguyễn Văn Đài, ls Lê Thị Công Nhân, sách nhiễu đấu tố hòa thượng Quảng Độ, thượng tọa Không Tánh, mục sư Nguyễn Hồng Quang, lm Phan Văn Lợi…

Sau khi trở nên Thành viên Bất Thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ hôm 16-10-2007, tức là ngồi vào giữa thế giới văn minh, đi bảo vệ an ninh toàn cầu với những tiêu chuẩn quốc tế về tự do, nhân quyền, dân chủ, CSVN lại tiếp tục trò man rợ cũ là bảo vệ an ninh nội địa bằng gia tăng sự phối hợp giữa công an và côn đồ, giữ gìn pháp chế xã hội chủ nghĩa bằng cách đàn áp mọi tiếng nói đối kháng, bằng cách tổ chức các phiên tòa chính trị (đôi lúc cả các phiên tòa hình sự) theo kiểu luật rừng. Đang khi đó thì các lãnh đạo CS hứa hẹn đủ điều với quốc tế, nào là “VN sẽ quán triệt tôn chỉ, mục đích và các nguyên tắc đề ra trong Hiến chương LHQ… sẽ làm tốt trọng trách Ủy viên không thường trực HĐBA, xứng đáng với sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế”, nào là “VN không hề đàn áp những người bất đồng chính kiến, trái lại mọi công dân đều được tự do phát biểu” vân vân và vân vân. Thế nhưng, trong và ngoài phiên tòa phúc thẩm hôm 27-11 mới rồi, xử 2 luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân, với những trò áp dụng khoản luật vi hiến (điều 88 Bộ luật hình sự), cãi chày cối hay ngậm hột thị, cướp thời gian của luật sư, vu khống các bị cáo, chọn lọc thành phần cử tọa…, với những trò ngăn chận thân nhân kẻ bị xử, bắt biệt tích các nhân chứng, chặn đường hay hành hung những người ủng hộ… làm một cách ngang nhiên giữa thanh thiên bạch nhật, trước đôi mắt của nhân dân và quốc tế… Mới đây nhất là vụ giam giữ những nhà hoạt động dân chủ bất bạo động từ nước ngoài về, còn vu khống họ là khủng bố qua việc nhét súng vào hành lý của một Việt kiều thăm quê… Tất cả một lần nữa cho thấy dù đã ngồi vào ghế văn minh, CSVN vẫn cứ thói man rợ. Thật ra, qua cả một lịch sử dài của các đảng và các chế độ CS, CS đâu có gì là văn hóa, đâu có gì là văn minh, đâu có gì là quân tử !!!

BAN BIÊN TẬP

TOP

Babui – Danchimviet.com


TRỞ VỀ
TRANG ĐẦU TIÊN



______________________________________________________