16.9.08

Xã luận số 09

Sống chết mặc bây!!!

Nghị quyết 36 năm 2004 của bộ Chính trị đảng CSVN về người Việt nước ngoài từng tuyên bố: “Nhà nước có trách nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế” (chương II.2), “Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống xã hội nước sở tại… bảo vệ lợi ích chính đáng của bà con, chống các biểu hiện kỳ thị, các hành động chống lại người Việt Nam ở nước ngoài” (chương III.1). “Sách trắng về Nhân quyền tại VN” của bộ Ngoại giao CSVN năm 2005 cũng có khoe: “Việt Nam đã ký kết Hiệp định lãnh sự…, Hiệp định tương trợ tư pháp…, Hiệp định kiều dân……, qua đó tạo điều kiện thuận lợi… tạo cơ sở pháp lý để thực hiện công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài” (chương II.I.7).

Thế nhưng, sự kiện gần 200 người Việt đi lao động bị mắc kẹt trong vòng lửa đạn ở Lebanon tháng 7 vừa qua đã một lần nữa cho thấy lời nói (văn bản) của Cộng sản VN chỉ là lường gạt. Ta hãy nghe một người trong cuộc, ông Hoàng Minh Trung, nói với đài BBC: “Tôi phải luôn chủ động gọi điện cho họ (sứ quán VN tại Cairo-Ai Cập), họ nói là sẽ giữ liên lạc nhưng không gọi lại”. Sau đó, “họ bảo tôi rằng hiện chi phí để đưa người ta khỏi Beirut là quá đắt và hiện chưa có một đơn vị hay tổ chức nào đứng ra chịu trách nhiệm về việc sơ tán này”. (nguồn: www.bbc.co.uk/vietnamese). Thật ra cước phí di tản dành cho bà con không nhiều hơn 16 triệu đôla quỹ đen tại bộ ngoại giao (mới bị phanh phui), không nhiều hơn hàng chục triệu đôla viện trợ bị bộ giao thông vận tải lấy cắp để ăn chơi và bỏ túi, càng không nhiều hơn số tiền 4 tỷ đôla mà người Việt sống ở nước ngoài hàng năm gửi về quê hương. Ngoài ra, chẳng lẽ di tản đồng bào ra khỏi “chỗ chết” cũng cần và đợi “tài trợ”? May mà cho tới hôm nay, nhờ sự trợ giúp toàn bộ chi phí của Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM), đã có hơn 60 người Việt trở về được quê nhà (nguồn: RFA 06-08-2006). Đây không phải là lần đầu tiên người Việt lao động tại vùng Trung Đông bị kẹt do xung đột. Cuộc chiến Vùng Vịnh hồi đầu thập niên 1990 đã khiến ít nhất 50 ngàn lao động VN phải rời Iraq bằng nhiều phương tiện tự túc khác nhau, kể cả xe buýt và đi bộ. Họ băng qua nhiều nước và cuối cùng cũng đã về tới VN bằng máy bay do Liên Hiệp Quốc bảo trợ với một chặng đường kéo dài mấy tháng. Đang khi đó, một số nước có người lao động tại Iraq, thậm chí là nước đang phát triển, hồi đó đã dùng máy bay chở công dân của họ hồi hương trước khi xung đột xảy ra.

Tiếp đến là chuyện công nhân Việt tại Đài Loan mà nổi cộm gần đây (5-2005) là vụ hai cha con chủ một công ty môi giới người Đài thay phiên nhau cưỡng hiếp hàng trăm nữ công nhân Việt. Chị em thoạt đầu đã kêu cứu với ông Trần Đông Huy, trưởng ban quản lý lao động VN tại Đài Loan, song ông này lại có hành động tiếp tay với phía chủ nhân tội phạm. Thế là họ liền cầu cứu các tổ chức thiện nguyện địa phương như tổ chức của linh mục Nguyễn Văn Hùng, người từng giúp đỡ lao động ngọai quốc và kiều bào tại đây từ năm 1999. Trần Đông Huy liền kết án linh mục Hùng là “phản động, chống đối nhà nước Việt Nam ”. Cha Hùng cho biết: mỗi khi có tranh chấp giữa chủ Đài và công nhân Việt, ông Trần Đông Huy cũng như đại diện Văn hóa Kinh tế VN tại Đài Loan (một hình thức sứ quán) đều không bao giờ lên tiếng bảo vệ quyền lợi chính đáng của đồng bào mình (nguồn: Veritas Asia).

Lùi xa hơn một tí là câu c huyện năm 2000 về 250 nữ công nhân Việt nam lao động xuất khẩu sang làm việc tại công ty Daewoosa (Đại Hàn) ở đảo Samoa, thuộc địa của Hoa Kỳ. Chỉ sau một thời gian ngắn, chị em đã bị đối xử rất tệ bạc : không được trả lương nhiều tháng, đòi hỏi công bằng thì bị đánh đập, bỏ đói trong nhiều ngày. Thậm chí có cô còn bị hãm hiếp. Trong thư cầu cứu ngày 28-11-2000 gửi tới cộng đồng VN hải ngoại, họ đã kêu thống thiết: “Từ khi bước chân sang đây làm việc, chúng tôi đã bị công ty Daewoosa vi phạm hợp đồng và chà đạp quá nhiều. Uất ức và phẫn nộ, chúng tôi đã gửi nhiều đơn thư kêu cứu về Công ty Du lịch 12 và bộ Lao Ðộng, báo Phụ Nữ ở trong nước nhưng đều không nhận được sự giúp đỡ khả quan nào, mà tình trạng càng ngày càng dẫn đến tồi tệ...” Giải thích vấn đề, trên tờ Lao Động ra ngày 5-01-2001, Giám đốc Công ty Du lịch 12 đã ngang nhiên bênh vực phía chủ nhân Đại Hàn, còn trách móc đổ lỗi cho công nhân. Đang khi để được chấp nhận đi làm việc nước ngoài, mỗi công nhân đã phải đóng cho Công ty này (công ty nhà nước chuyên trách xuất khẩu công nhân) từ 3.000 đến 5.000 mỹ kim ! May thay, các tổ chức thiện nguyện của cộng đồng người Việt hải ngoại tại Hoa Kỳ đã mau chóng lên tiếng bênh vực chị em và kêu gọi chính quyền Mỹ can thiệp. Kết quả là ngày 28-11-2001, bộ Lao động HK đã khởi tố ông Kil Soo Lee, chủ nhân công ty Daewoosa về tội buôn người. Gần 250 nạn nhân được đưa đến Hoa Kỳ để làm nhân chứng cho vụ kiện. Sau đó, gần như tất cả họ được cho định cư tại Mỹ (nguồn : RFA).

Trên đây là vài sự kiện điển hình (trong vô vàn sự kiện) cho thấy thái độ “đem con bỏ chợ”, “sống chết mặc bây” của nhà cầm quyền Cộng sản VN đối với kiều bào. Nếu kể thêm thái độ đối với đồng bào trong Nước đã và đang kêu thấu tới trời vì bị đảng viên, cán bộ, cơ quan nhà nước hà hiếp bóc lột từ hơn 60 năm nay thì phải lên đến hàng tỷ trường hợp. Thái độ này, theo thiển ý chúng tôi, xuất phát từ hai nguyên nhân sau:

1- Những người Cộng sản đều bị chủ nghĩa Mác-xít duy vật vô thần đầu độc. Chủ nghĩa này định nghĩa “con người là vốn quý”, nghĩa là nhìn con người duy dưới khía cạnh kinh tế, coi giá trị con người là ở “năng lực sản xuất” (Đảng ta và Nhà nước ta yêu quý Việt kiều chỉ vì xem họ là “đàn bò sữa”, thế thôi!). Lương tâm, nhân phẩm, danh dự, tình máu mủ, nghĩa đồng bào… trong thực tế chỉ là những điều vô nghĩa đối với CS. CS chỉ quý chuộng tôn thờ hai giá trị tối thượng là quyền lực và quyền lợi! Còn có lợi cho đảng, cho chế độ thì còn được sống, còn được dùng, còn được ban “ân huệ”. Nhược bằng ngáng trở con đường của đảng thì phải bị gạt ra bên lề (bị giết chết ngay hay để cho chết dần), dẫu đó là ân nhân, thân thuộc, bằng hữu… Cuộc tổng tàn sát cả trăm triệu đồng bào do các chế độ và lãnh tụ CS khét tiếng thực hiện trên khắp thế giới gần 90 năm qua là những bằng chứng mang tầm mức hoàn vũ. Riêng mảnh đất VN cũng đã thắm máu nửa triệu người trong cuộc Cải cách ruộng đất (biến cố làm Hồ Chí Minh lưu danh, đặc biệt nhờ việc giết bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân của đảng; còn Trường Chinh Đặng Xuân Khu thì nhờ đã đấu tố cả cha mẹ mình, và thành tích này được ngàn đời ghi trên bia miệng qua câu đối bất hủ: “Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác-Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng - Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hóa, tội kia sách chép đứa tên Khu”), đât Việt cũng thắm máu của gần 5000 nạn nhân vô tội bị chôn sống ở Huế tết Mậu Thân, của 4-5 triệu thanh niên hai miền Nam Bắc trong cuộc chiến tranh xâm lăng bạo tàn ngu xuẩn, của gần trăm ngàn quân cán chính VNCH bị đày đoạ trong các “trại cải tạo”, và của cả triệu Đồng bào phải bỏ xác trên rừng dưới biển trong cuộc vượt biên sau 1975…

2- Những người CS nắm được quyền trên Đất nước không phải do toàn Dân trao cho qua những cuộc bầu cử quang minh chính đại mà là do họ “cướp” lấy (từ chính CS dùng). Những chức vụ quan trọng trong guồng máy quốc gia mà người CS nắm không do tranh giành bằng tài năng và đức hạnh mà bằng thần thế và mua bán. Lại nữa, chế độ CS là chế độ độc đảng độc tài, triệt tiêu mọi đảng phái đối lập và mọi tiếng nói đối kháng để muôn năm trường trị. Thành ra người CS không bao giờ thấy mình có trách nhiệm thật sự với Nhân dân, phải trả lẽ trước Nhân dân, phải cố gắng để xứng với lòng tin yêu trông cậy của Nhân dân hầu được nhân dân tiếp tục trao quyền lực. Thành thử khi bị toàn dân hay quốc tế phê phán là có lối hành xử vô nhân “đem con bỏ chợ”, “sống chết mặc bây”, Cộng sản liền chống chế bằng những lời lẽ ngụy biện đãi bôi hay bằng những hành vi khỏa lấp giả bộ, tuy thế chẳng lừa gạt được ai. Nhân dân ta thật chí lý khi cải biến một câu ca dao thời danh thành: “Mấy đời bánh đúc có xương ? Mấy đời CS nó thương dân mình ?”

Để Đất nước VN thực sự có một chính quyền biết nghe tiếng Dân, biết lo cho Dân, biết sợ phản ứng của Dân và biết lãnh trách nhiệm trước Dân, thì cần có hai điều kiện cơ bản: (1) học thuyết phi nhân bản phản dân tộc, độc hại dối trá là chủ nghĩa Mác-Lê duy vật, vô thần phải biến sạch khỏi tâm trí người Việt và môi trường Nước Việt; (2) cái chế độ tiếm quyền tiếm danh, độc tài độc đảng phải bị chôn táng vĩnh viễn vào quá khứ, nhường chỗ cho một chế độ dân chủ đa nguyên, một Nhà nước do Dân chọn ra qua những cuộc bầu cử đích thực.

BAN BIÊN TẬP


Hí họa của Babui, source: danchimviet.com - TO


TRỞ VỀ
TRANG ĐẦU TIÊN



______________________________________________________